Phóng sinh là hành động giải thoát và giúp đỡ các sinh linh, thể hiện lòng từ bi và nhân quả trong đạo Phật.
Định nghĩa phóng sinh trong đạo Phật
Phóng sinh trong đạo Phật là hành động cứu rỗi linh hồn của những sinh linh bị kiếp nạn và khổ đau trong vòng luân hồi. Định nghĩa và ý nghĩa của việc phóng sinh trong đạo Phật không chỉ đơn giản là cầu nguyện cho linh hồn bị oan trái được giải thoát, mà còn là hành động từ bi và từ tâm của người tu hành.
Theo lý thuyết Phật pháp, phóng sinh không chỉ đem lại phúc báo cho linh hồn được cứu rỗi mà còn giúp tâm hồn người phóng sinh trở nên thanh tịnh, nhân từ và từ bi hơn. Việc phóng sinh cũng giúp người tu hành tăng cường lòng từ bi và từ tâm, đồng thời giảm bớt ô uế và mong muốn cá nhân để hướng tới sự giác ngộ và giải thoát cuối cùng.
Tuy nhiên, để có ý nghĩa thực sự, việc phóng sinh cần được thực hiện không chỉ bằng việc đặt lịch hẹn và cầu nguyện mà còn bằng tâm thành và tinh tế. Người tu hành cần hiểu rõ lý do và ý nghĩa của việc phóng sinh, cũng như có ý thức về tác động tích cực mà hành động này mang lại đối với chính bản thân và mọi sinh linh khác.
Trong tinh thần đạo Phật, việc phóng sinh được coi là một hành động cao quý và thiêng liêng, có tác động tích cực không chỉ với linh hồn mà còn với tâm hồn của người tu hành. Đó là cách để thể hiện lòng từ bi, từ tâm và nhân ái, cũng như là con đường tiếp cận đến sự giác ngộ và giải thoát cuối cùng trong đạo Phật.
Lợi ích của việc phóng sinh trong đạo Phật
Phóng sinh trong đạo Phật là việc sinh ra lại một cách tinh tấn nhằm giúp đỡ những linh hồn bất hạnh hoặc thiếu may mắn đạt được bình an và tiếp tục hành trì trong chuỗi luân hồi. Ý nghĩa của việc này rất quan trọng và có nhiều lợi ích đối với người thực hành.
Đầu tiên, phóng sinh giúp tạo cơ hội cho linh hồn được tái sinh ở một thế giới tốt đẹp hơn, nơi có cơ may để học hỏi và tiến bộ trong việc thoát khỏi chuỗi luân hồi. Điều này giúp họ giảm bớt khổ đau và cực khổ trong cuộc sống, đồng thời nhận lấy sự thức tỉnh và nhận thức về quy luật nhân quả.
Thứ hai, phóng sinh cũng là cơ hội cho người thực hành thể hiện lòng nhân ái và tình yêu thương đối với mọi loài sống. Khi phóng sinh cho những linh hồn khó khăn, người thực hành hiểu rõ hơn về sự đau khổ và cần thiết của việc chia sẻ, giúp đỡ người khác. Điều này giúp họ trở nên nhân từ và nhân quả hơn trong cuộc sống hàng ngày.
Cuối cùng, việc phóng sinh cũng là một cách tâm linh giúp tăng cường dung nhan tốt đẹp và thiện lương cho người thực hành. Khi hành đạo từ lòng yêu thương và tình cảm, họ có thể xóa bỏ dư vị tiêu cực và tâm thức bị ô nhiễm, đồng thời thấy rõ hơn về tầm quan trọng của việc sống một cuộc sống tốt đẹp theo lẽ phải và lẽ thiện.
Tóm lại, việc phóng sinh trong đạo Phật không chỉ là việc hạnh ngộ với linh hồn mà còn là cơ hội tốt để tâm linh tinh tấn, giúp người thực hành trở nên nhân từ và có tấm lòng yêu thương mạnh mẽ hơn.
Phương pháp thực hiện phóng sinh trong đạo Phật
Phương pháp thực hiện phóng sinh trong đạo Phật là một trong những hoạt động thiêng liêng mà người Phật tử thường thực hiện để giúp giảm bớt đau khổ và nâng cao lòng từ bi.
Định nghĩa và ý nghĩa của việc phóng sinh trong đạo Phật là hành động cứu khổ và giải thoát cho tất cả chúng sinh. Phóng sinh không chỉ dành riêng cho người đã khuất mà còn cho tất cả chúng sinh, từ côn trùng, động vật đến người.
Việc phóng sinh giúp chúng ta trau dồi lòng từ bi, lòng nhân ái và tăng cường niềm tin vào pháp Phật. Khi thực hiện phóng sinh, chúng ta gửi bằng tất cả công đức tích lũy được từ việc này cho chúng sinh, giúp họ giải thoát khỏi luân hồi và hướng tới giác ngộ.
Những ngày đặc biệt như Rằm tháng 7, đại lễ Vu Lan, hay các ngày lễ quan trọng khác trong năm thường là dịp mà người Phật tử thường thực hiện phóng sinh. Để thực hiện phương pháp này, người ta thường cúng dường, recite kinh Phật, và thực hiện các nghi lễ trang nghiêm.
Nêu ví dụ về các hành động phóng sinh phổ biến
Phóng sinh là một hành động quan trọng trong đạo Phật, có ý nghĩa lớn trong việc giúp giảm đau khổ cho các sinh linh. Việc phóng sinh được hiểu là việc giải thoát sinh linh khỏi kiếp luân hồi bằng cách tạo điều kiện cho chúng được tái sinh vào một cơ thể mới.
Các hành động phóng sinh phổ biến mà mọi người thường thực hiện là thả cá, thả chim, thả sâu bướm, thả rùa, và thả cua. Việc này không chỉ giúp sinh linh được thọ lâu hơn mà còn giúp tạo ra môi trường sống tốt cho chúng, đồng thời giảm bớt sự đau khổ của chúng trong cuộc sống.
Ví dụ, tại các ngôi chùa, đền thờ hoặc các ngôi chùa Phật giáo, người ta thường thực hiện các nghi lễ phóng sinh vào ngày rằm để tạo cơ hội cho sinh linh tái sinh và có cơ hội tiếp tục học hành tu tập. Thông qua việc phóng sinh, mọi người hy vọng sẽ được thanh tịnh tâm hồn, giảm bớt tội lỗi và nhận được phước lành từ việc này.
Kết luận
[Kết luận] Việc phóng sinh trong đạo Phật là một hành động cao đẹp, giúp giảm bớt nghiệp chướng và tạo ra cơ hội để nhận hạnh phúc trong tương lai. Định nghĩa và ý nghĩa của việc phóng sinh trong đạo Phật được thể hiện qua việc cứu giúp các sinh linh khổ đau, tăng cường lòng từ bi và bồi dưỡng tâm hồn trong mỗi người. Qua việc hiểu rõ và thực hành phóng sinh, chúng ta có thể cải thiện tâm hồn của mình, đồng thời hướng đến sự an lạc và hạnh phúc cho mọi chúng sanh.
NGHI THỨC
PHÓNG SANH
(Trước niệm hương khẩn tên người phóng sanh muốn cầu những gì, nguyện thả sanh linh được tự do giải thoát)
Dương chi tịnh thuỷ
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên
Pháp giới quảng tăng diên
Diệt tội tiêu khiên
Hoả diệm hoá hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần )
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bác ra da, Bồ đề tát đoả bà da,
ma ha tát đoả bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả.
Nam mô tất kiết lật đoả y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đoả, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Bà đà ma yết tất bàdạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàng ra dạ, ta bà
Án, tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(3lần)
GIẢI NGHIỆP KỆ
Hữu tình chúng sanh túc nghiệp đa
Trí cổ kim sanh tạo võng la
Hạnh ngộ thiện duyên công đức đại,
Quy y Tam Bảo tội tiêu ma
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 lần )
Thiên giá giá, địa giá giá
La võng biến tác Phật ca sa,
Thất Bảo Như Lai phóng sanh kệ
Tứ đại yết đế hộ phóng tha
Phi cầm, tẩu thú quy sơn khứ
Ngư biếc hà giải lạc thanh sa
Nhược hữu nhứt cá bất đắc thoát
Sơn thần thuỷ tướng hộ phóng tha.
Án linh cảm hồng phấn tra. (3 lần )
PHẬT NGÔN
Tình đa tưởng thiểu, lưu nhập hoành sanh, cố tri nhữ đẳng. Tích dĩ ám tế ngu si, bất tu chánh niệm. Kim tắc vũ mao lân giới. thụ thử liệt hình, thuỷ lục phi không, chủng chủng bất nhất, hoặc đầu câu thị, hoặc nhập võng la, mạng tại đao châm, hồn phi thang hoả. Hạnh phùng (Tăng chúng, Thiện sĩ) tài tục nhữ thân, vạn tử đắc sanh lai thử thắng địa. Kim thỉnh chư Thánh, đả nhữ linh lông, nhữ đương nhất tâm quy y Tam Bảo.
QUY Y TAM BẢO
Nhữ đẳng, (Thuỷ, lục, không) tánh chúng sanh đầu quy y Tam Bảo.
Quy y Phật, quy y Pháp, Quy y Tăng ( 3 lần )
Quy y Phật lưỡng túc Tôn
Quy y Pháp lưỡng túc Tôn
Quy y Pháp Ly dục Tôn
Quy y Tăng chúng trung Tôn ( 3 lần )
Quy y Phật bất hoạ địa ngục
Quy y Pháp bất đoạ nga quỷ
Quy y Tăng bất đoạ bàng sinh ( 3 lần )
Quy y Phật cảnh
Quy y Pháp cảnh
Quy y Tăng cảnh ( 3 lần )
Quy y Tam Bảo viễn ly tam đồ khổ. Nhữ đẳng sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngữ ý, chi sở sanh
Nhứt thiết chúng đẳng kim giai sám hối
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát ( 3 lần )
XƯỚNG
Nhữ đẳng Phật tử quy y Tam Bảo cập Sám hối dĩ, nhữ tội chướng tiêu diệt, trí tuệ khai minh, Phát Bồ Đề tâm, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, liên hoa hóa sanh, nhập bất thối địa. Hiện tiền đại chúng vị (thuỷ, lục, không) tánh chúng sanh, nhứt tâm niệm Phật.
TÁN
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hoá Phật vô số ức
Hoá Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
(Niệm nhiều ít tuỳ ý)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. ( 3 lần )
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. ( 3 lần )
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. ( 3 lần )
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 3 lần )
( Đồng quỳ, chắp tay đọc bái sám )
HỒI HƯỚNG
Phóng sanh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,
Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.
( Đánh khánh 3 tiếng, xướng)
Nhữ đẳng phi tiềm túc nghiệp đa
Hạnh đắc kim triệu hội chủ gia
Ngã kim phóng nhờ du du khứ
Nguyện kỳ tín chủ phú hà sa
Nam mô Trường Thọ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần)
(Niệm Phật, cá rùa đem đến sông mà thả, chim đem ra sau mà thả)
SÁM DI ĐÀ
Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi,
Thầy là Bảo Tạng Như Lai,
Bạn là Bảo Hải tức ngài Thích Ca.
Thích Ca nguyện độ Ta bà,
Di Ðà nguyện mở cửa nhà Lạc bang,
Mở ao chín phẩm sen vàng,
Xây thành bá bảo đồ đàng thất trân.
Lưu ly quả đất sáng ngần,Muốn đi có một đường nầy,
Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra,
Vậy khuyên phải niệm Di Ðà,
Hồng danh sáu chữ thật là rất cao.
Hay trừ tám vạn trần lao,
Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua,
Di Ðà xưa cũng làm vua,
Bỏ ngôi bỏ nước vô chùa mà tu,
Xét ra từ kiếp đã lâu,
Hiệu là Pháp Tạng Tỷ kheo đó mà.
Trong khi Ngài mới xuất gia,
Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần.
Nguyện nào cũng lắm oai thần,
Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh,
Vì thương thế giới bất bình,
Lầu châu cát ngọc mười phần trang nghiêm.
Hoa trời rưới cả ngày đêm,
Có cây rất báu có chim rất kỳ,
Lạ lùng cái cảnh phương Tây,
Mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua.
Phong quang vui vẻ bốn mùa,
Nước reo pháp Phật gió khua nhạc trời.
Di Ðà có thệ một lời,
Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh,
Mười phương ai phát lòng lành,
Nhất tâm mà niệm hồng danh của Ngài.
Hằng ngày trong lúc hôm mai,
Niệm từ mười tiếng đến vài ba trăm,
Khi đi, khi đứng, khi nằm,
Chuyên trì niệm Phật, lòng chăm phát nguyền.
Nguyện sanh về cõi bảo liên,
Là nơi Cực lạc ở miền Tây phương,
Ðến khi thọ mạng vô thường,
Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền.
Biết bao phước đức nhơn duyên,
Ðã về Cực lạc còn phiền não chi,
Sự vui trời cũng chẳng bì,
Ðêm đêm thong thả ngày ngày vui chơi.
Sống lâu kiếp kiếp đời đời,
Không già không chết không dời đi đâu.
SÁM ĐẠI TỪ
Mười phương cõi Phật hằng sa,
Pháp vương thứ nhứt Di Đà lớn thay,
Cảm oai đức Phật cao dày,
Ao sen chím phẩm độ nay phàm tình.
Tôi tin có Phật gởi mình,
Một bề lánh dữ theo lành mà thôi,
Phước lành bằng chút mảy chồi,
Gắng làm cho trọn lòng tôi không rời.
Nguyện đồng niệm Phật mỗi người,
Cầu cho cảm ứng theo thời hiện ra,
Mãn duyên thấy Phật Di Đà,
Tây phương chói rạng sáng lòa mắt tôi.
Kẻ nghe người thấy tiếc ôi,
Rủ nhau tin tưởng lần hồi tu theo,
Tỏ đường sanh tử các điều,
Y như Phật dạy, dắt dìu chúng sanh.
Dứt lòng phiền não mê tình,
Không lường pháp nhiệm nguyện hành học tu,
Thệ nguyện độ hết phàm phu,
Đều nên đạo Phật ngao du độ đời.
Lòng này chẳng dám lộng khơi.
Hư không mòn hết nguyện tôi còn hoài,
Nguyện cho cây, cỏ, đá, chai,
Bò, bay, máy, cựa, các loài thung dung,
MỘT là nguyện Phật thần thông,
Chứng minh đệ tử thành công lâu dài.
HAI là nguyện lạy Như Lai,
Cầu cho già trẻ gái trai làm lành.
BA là phát nguyện chí thành,
Cúng dường Tam Bảo tứ sanh khỏi nàn.
BỐN là nguyện dứt nghiệp oan,
Vượt qua biển khổ ba đường thoát qua,
NĂM là nguyện học Thiền na,
Bạn lành nương cậy thầy tà lánh xa.
SÁU là nguyện Phật nói ra,
Xoay vần chánh pháp khắp tòa đặng nghe.
BẢY là nguyện Phật chở che,
Ở lâu dạy bảo người nghe tỏ lòng.
TÁM là nguyện bạn ở chung,
Những lời Phật dạy học cùng với nhau.
CHÍN là nguyện trước nhớ sau,
Thuận theo thế tục dám đâu trái lời.
MƯỜI là nguyện khắp trong đời,
Xoay mình bước tới thẳng dời Lạc bang.
SÁM NHỨT TÂM NGHĨA
Một lòng mỏi mệt không nài,
Cầu về Cực lạc ngồi đài liên hoa,
Cha lành vốn thiệt Di Ðà,
Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.
Thẩm sâu ơn Phật hằng còn,
Con nay chánh niệm lòng son một bề,
Nguyện làm nên đạo Bồ đề,
Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây phương.
Phật xưa lời thệ tỏ tường,
Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sanh,
Thề rằng ai phát lòng lành,
Nước ta báu vật để dành các ngươi.
Thiện nam tín nữ mỗi người,
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra,
Ta không rước ở nước ta,
Thệ không làm Phật chắc là không sai.
Bởi vì tin tưởng Như Lai,
Có duyên tưởng Phật sống dai vô cùng.
Lời thề biển rộng mênh mông,
Nhờ ơn đức Phật thoát vòng trần lao.
Tội mòn như đá mài dao,
Phước lành thêm lớn càng cao càng dày.
Cầu cho con thác biết ngày,
Biết giờ, biết khắc biết rày tánh linh.
Cầu con tội khổ khỏi mình,
Lòng không trìu mến chuyện tình thế gian.
Cầu cho thần thức nhẹ nhàng,
In như thiền định họ Bàng thuở xưa.
Ðài vàng tay Phật bưng chờ,
Các ngại Bồ Tát bây giờ đứng trông.
Rước con thiệt đã nên đông,
Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.
Xem trong cõi Phật tốt thay,
Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần.
Hội nầy thấy Phật chơn thân,
Ðặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng.
Quyết tu độ chúng phàm nhân,
Ðủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dài,
Phật thệ chắc thật không sai.
Cầu về Tịnh độ ai ai tin lòng,
Cầu về Tịnh độ một nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa nở rồi biết tánh linh,
Các ông Bồ Tát bạn lành với ta.
SÁM NGUYỆN
(Sám này có thể dùng thay thế các sám trước)
Đệ tử chúng con từ vô thỉ,
Gây bao tội ác bởi lầm mê,
Đắm trong sanh tử đã bao lần,
Nay đến trước đài vô thượng giác;
Biển trần khổ lâu đời luân lạc,
Với sinh linh vô số điêu tàn,
Sống u hoài trong kiếp lầm than,
Con lạc lõng không nhìn phương hướng,
Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng,
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng,
Xin hướng về núp bóng từ quang,
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đường ác trược,
Vì tham, sân, si, mạn gây nên,
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyền,
Xin sám hối để lòng thanh thoát;
Trí huệ quang minh như nhựt nguyệt,
Từ bi vô lượng cứu quần sinh,
Ôi ! Từ lâu ba chốn ngục hình,
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi,
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải,
Nương thuyền từ vượt bể ái hà,
Nhớ lời Ngài, “Bờ giác không xa
Hành thập thiện cho đời tươi sáng,
Bỏ việc ác, để đời quang đãng,
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân”.
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng,
Con nguyện được sống đời rộng rãi,
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh,
Để theo Ngài trên bước đường lành,
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ;
Chúng con khổ, nguyền xin tự độ,
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời,
Phá si mê, trí huệ tuyệt vời,
Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc,
Phật A Di Đà thân kim sắc,
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc,
Trong hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Quy mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin đức Từ bi tiếp độ.
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.